Mô tả Brachychiton rupestris

Brachychiton rupestris là cây mọng nước. Khi trưởng thành cây cao 10 đến 20 m (33 đến 36 ft), rất hiếm cây cao đến 25 m (82 ft)[2] dù cây canh tác thường thấp hơn.[3] Thân cây dày, cao 5 đến 15 m (16 đến 49 ft), với biến số đươnggf kính (DBH) là 1 đến 3,5 m (3,3–11,5 ft). Vỏ cây màu xám đen có nhiều vết nứt dạng lưới tổ ong trên bề mặt vài vết nứt sâu. khi cây còn non, nhành cây có màu xanh sáng hoặc xám. Lá mọc dọc theo cuống, giống như các cây cùng thuộc chi Brachychiton.[2]

Lá non

Brachychiton rupestris hay rụng lá. Cây trong môi trường sống tự nhiên thường trụi lá giữa tháng 9 và tháng 12, tuy nhiên mức độ rụng lá, thời gian rụng có thể bị ảnh hưởng bởi mưa hay hạn hán.[2] Đôi khi cây rụng lá chỉ từ một số cành.[4] Lá mỗi cây có hình dạng khác nhau, được xẻ làm nhiều phần, hẹp hoặc có hình elip.[5] Mặt trên của lá có màu bóng loáng, đậm, khác hẳn với mặt dưới có màu nhạt hơn. CÁc phiến lá trưởng thành dài 4 đến 11 cm (1,6 đến 4,3 inch) và 0,8 đến 2 cm (0,3 đến 0,8 inch) với đầu lá nhọn chĩa xuống dưới. Lá có sống giữa nổi lên cả hai mặt trên, dưới, và phía mặt lá dưới có 12 đến 25 cặp sống lá (nhiều hơn mặt trên) tạo một góc 50 đến 60 độ so với sống lá chính giữa. Lá non hợp vào với nhau (3 đến 9 lá) có hình mũi mác hoặc thẳng. Lá non dài 4 đến 14 cm (1,6 đến 5,5 inch) và rộng 0,3 đến 1 cm (0,1 đến 0,4 inch).[2]

Lá trưởng thành

Bông hoa có màu vàng kem, chùm hoa hình chùy hoa lấm tấm đỏ[5] xuất hiện từ tháng 9 đến tháng 11. Hoa mọc từ chồi nách ở cuối cành. Mỗi chùm hoa hình chùy có 10 đến 30 bông và dài 3 đến 8 cm (1,2 đến 3,1 inch). Mỗi bông hoa dài 0,5 đến 1 cm (0,2 đến 0,4 inch) và rộng 1,3 đến 1,8 cm (0,5 đến 0,7 inch). Chiều dài các thùy của bao hoa hơn một nửa so với đường kính bao hoa.[2] Giống như tất cả các loài thuộc chi Brachychiton, Brachychiton rupestris là cây có hoa đực và hoa cái cùng ở chung (Không phải là cây có hoa lưỡng tính, mà cây có hoa đực và hoa cái phân tính nhưng cùng trên 1 cây).[2] Hoa đực có 15 nhị hoa, với bao phấn màu vàng nhạt, trong khi hoa cái có nhụy màu kem hoặc trắng được bao quanh bởi lá noãn (bộ phận ở trên đỉnh buồng trứng) hình ngôi sao.[2]

Quả đại có hình thuyền,[5] mọc thành nhóm 3 đến 5 quả. Mỗi quả có 4 đến 8, đôi khi đến 12 hạt. Quả phát triển từ tháng 11 đến tháng 5. Mặt ngoài quả thì nhẵn, mặt trong có lông. Quả được tách, dọc theo chiều dài, để lộ hạt. Hạt được bao bọc bởi lớp lông gọi là exotesta. Hạt có hình trứng mặt nhẵn, dài 6 đến 7 mm (0,24 đến 0,28 inch) và rộng 3,5 đến 4,5 mm (0,14 đến 0,18 inch).[2]

Loài có khá nhiều nét tương đồng là Brachychiton compactus (Proserpine bottle tree – cây chai Proserpine) mọc ở vùng lân cận thị trấn Proserpine, Queensland, Úc. Để phân biệt chúng, người ta dựa vào lá, hoa, quả. Brachychiton compactus có lá ô-van hơn, hoa nhỏ hơn và quả đại lại dẹt elip hơn.[6] Đối với Proserpine bottle tree (cây chai Proserpine) (chưa được mô tả) lại có tán và lá màu xanh giống chanh tươi hơn.[7]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Brachychiton rupestris http://www.anbg.gov.au/cgi-bin/apni?taxon_id=30316 http://www.anbg.gov.au/cgi-bin/apni?taxon_id=9711 http://www.anbg.gov.au/gnp/interns-2005/brachychit... http://books.google.com/books?id=GMoNAAAAQAAJ http://books.google.com/books?id=tF8CAAAAYAAJ&pg=P... http://biodiversitylibrary.org/page/127537 http://biodiversitylibrary.org/page/16815611 http://biodiversitylibrary.org/page/40739088 http://biodiversitylibrary.org/page/6721350 //dx.doi.org/10.1071%2FSB9880199